Tên đầy đủ: SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI KHÁNH HÒA
Địa chỉ : 4 Phan Chu Trinh, Xương Huân, Nha Trang, Khánh Hòa
Điện thoại : 058.3824270 - Fax: 058.3825970
Email : sgtvtkh@khanhhoa.gov.vn
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH
GIAO THÔNG VẬN TẢI KHÁNH HÒA
Kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thành lập Bộ Giao thông công chính (28/8/1945) đến nay, Ngành GTVT Việt Nam đã trải qua gần 70 năm tồn tại và phát triển, gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước với nhiều thời kỳ sôi nổi, hào hùng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giao thông là mạch máu của tổ chức. Giao thông tốt thì mọi việc dễ dàng. Giao thông xấu thì các việc đình trệ”. Câu nói giản dị của Bác không chỉ nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của GTVT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mà còn là lời nhắc nhở nhiệm vụ đối với những người làm công tác GTVT trong quá khứ, hiện tại và tương lai sau này. Có thể nói lịch sử hình thành, phát triển và trưởng thành của mình, lớp lớp thế hệ cán bộ, công nhân, lao động Ngành GTVT Việt Nam đã luôn theo lời chỉ dạy của Bác Hồ, luôn nỗ lực phấn đấu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong thời kỳ 1954 - 1964, do nhiệm vụ mới của đất nước là khôi phục phát triển kinh tế miền Bắc để chi viện cho chiến trường miền Nam, Chính phủ đã quyết định đổi tên Bộ Giao thông công chính thành Bộ Giao thông và Bưu điện do ông Nguyễn Văn Trân làm Bộ trưởng.
Tại Khánh Hoà, Tỉnh thành lập Ban Vận tải cơ khí làm công tác hậu cần nhằm đảm bảo cơ sở vật chất cho bộ đội chiến đấu.
Tháng 3/1950, Đại hội Đảng bộ Khánh Hoà lần thứ I tổ chức tại Hòn Ngang (Hòn Hèo), đã đề cập tới việc kiện toàn một số ngành chuyên môn nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của cuộc kháng chiến. Tháng 6/1950, Ty Bưu-Vận được thành lập trên cơ sở 2 ngành Bưu điện và Vận tải giao thông do Uỷ ban kháng chiến hành chánh trực tiếp điều hành, do đồng chí Nguyễn Kim Toàn làm Trưởng ty, 02 đồng chí Phó ty là Phan Nam và Trần Quang.
Năm 1951 bộ máy Ty Bưu-Vận tương đối hoàn chỉnh từ tỉnh đến cơ sở. Hệ thống giao thông từ Dốc Mõ vào Ninh Thuận, từ Dốc Mõ xuống Đầm Vân được thông suốt. Ty Bưu - Vận cũng phục hồi con đường giao thông Nam Khánh vào Ninh Thuận vốn bị gián đoạn trước đây.
Cuối năm 1954, thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, số lớn cán bộ Ngành Bưu - Vận tập kết ra Bắc học tập và nhận công tác mới, một số đồng chí được Đảng chỉ định ở lại hoạt động, thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong gian đoạn mới. Trong số này có đồng chí Ngô Đến, Trưởng ty Bưu-Vận.
Giao thông vận tải Khánh Hoà trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước
Ngày 01/01/1959, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời, triển khai Nghị quyết, nhiều tuyến đường bộ, đường biển bí mật từ Bắc vào Nam được hình thành. Trước yêu cầu cấp bách của cách mạng miền Nam, Trung ương chủ trương gấp rút xây dựng đường Hồ Chí Minh trên biển, kịp thời đưa cán bộ, vũ khí trang bị thiết yếu vào chiến trường.
Tháng 2/1965, Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ hai được triệu tập quyết định phát triển nhanh cơ sở ở các vùng yếu, tạo ra nhiều vùng tranh chấp để mở phong trào liên hoàn giải phóng từng mảng vùng nông thôn sát đô thị và các đường giao thông chiến lược. Cơ sở ta đã tổ chức nhiều chuyến xe chở muối từ Ninh Diêm lên căn cứ Đá Bàn. Đồng bào miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh đã đến tận Hòn Khói để mang muối về vùng giải phóng cung cấp cho đồng bào, chiến sĩ.
Thực hiện chủ trương của Bộ Chính trị, từ đầu năm 1969, tất cả các tỉnh ở miền Nam đều lần lượt xây dựng bộ máy chuyên trách về giao thông vận tải (gọi tắt là Ban Giao vận) nhằm đáp ứng qui mô phát triển của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Ban Giao vận chịu trách nhiệm vận chuyển đạn dược, vũ khí, khí tài, phương tiện tác chiến, lương thực, thực phẩm, thuốc men từ tổng kho đến tận các chiến trường theo chỉ đạo thống nhất của Tỉnh ủy, Tỉnh đội; Tổ chức việc mở đường, thông tuyến, đảm bảo cho việc chuyển quân, vận lương, vũ khí.
Ban Giao vận Khánh Hoà được thành lập do đồng chí Trần Mạnh Trường làm Trưởng ban, đồng chí Bùi Quốc Tuệ làm Phó Trưởng ban. Ban được giao nhiệm vụ cung ứng hậu cần cho 6 mũi: Cam Ranh, Nha Trang, Diên Khánh, Nam Ninh Hòa, Bắc Ninh Hòa và Vạn Ninh.
Những năm 1970, 1971, địch từng bước đưa quân ngụy thay quân Mỹ, giao quân Cảng Cam Ranh, sân bay Nha Trang, cứ điểm tên lửa, ra-đa cho quân ngụy. Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 7-1971 nhận định: Đối với ngành Giao thông vận tải “phải đảm bảo các nhu cầu vật chất, nhất là lương thực”.
Bộ máy lãnh đạo Ngành Giao thông vận tải Khánh Hòa đã khá hoàn chỉnh, đủ sức đảm đương nhiệm vụ lãnh đạo cán bộ, chiến sỹ của ngành hoàn thành nhiệm vụ to lớn là phục vụ hậu cần, mở đường, làm cầu, vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực, thuốc men cung ứng cho các chiến dịch trên địa bàn toàn tỉnh. Chiến trường phát triển đến đâu thì vận tải hậu cần đi đến đó. Bốn cung đường chính được hình thành, mỗi cung do 1 trung đội phụ trách: Cung thứ nhất từ Tổng kho Dốc Cọp đến Tà Gộc, cung thứ hai từ Tà Gộc đến Thôn Trang. Từ Thôn trang chia ra 2 cung là cung 3 và cung 4. Cung 3 từ Thôn Trang đến Ba Cụm và cung 4 từ Thôn Trang đến sông Giang (Khánh Vĩnh).
Năm 1974, Khu ủy V cấp cho Khánh Hoà 3 chiếc ô tô và 5 xe đạp thồ Phượng Hoàng, đó là vốn quý bổ sung cho lực lượng vận tải tỉnh nhà, đáp ứng nhu cầu vận chuyển ngày càng lớn khi chiến trường mở rộng. Từ đây, ngoài sức người là chính, ngành GTVT có thêm phương tiện vận chuyển vũ khí, đạn dược lương thực, thực phẩm, thuốc men bằng ô tô, xe đạp thồ và voi. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, Ban Giao vận tổ chức củng cố hệ thống đường cũ, mở rộng và làm thêm một số đường mới vươn sát gần xuống đồng bằng. Những tuyến đường nhánh từ đường mòn Hồ Chí Minh nối liền với căn cứ cách mạng được tu sửa, mở rộng: Đường Thác Trại-Hòn Dữ, đường Buôn Tang Rang-Hòn Khoai.
Ngày 2 tháng 4/1975, toàn tỉnh được giải phóng, Ban Giao vận tổ chức tốt việc cung ứng hậu cần lương thực, thực phẩm, phương tiện vận tải phục vụ kịp thời bộ đội sư đoàn 10 hành quân đánh địch. Khoảng 3 giờ chiều ngày 2/4/1975 đoàn xe tăng của Sư đoàn 10 tiến vào Nha Trang, Ban giao vận tổ chức tập trung lương thực, thực phẩm, xăng dầu phục vụ bộ đội, đồng thời tiếp quản hơn 1000 xe các loại do địch bỏ lại và tổ chức vận chuyển bộ đội hành quân vào các tỉnh phía Nam phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Ngay sau ngày tỉnh nhà giải phóng, các cán bộ, chiến sỹ thuộc Ban Giao vận Khánh Hoà và số cán bộ từ miền Bắc trở về quê hương được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ tiếp quản các cơ sở kinh tế, kỹ thuật của chế độ cũ để lại và bắt đầu xây dựng ngành về mọi mặt, bắt đầu sự nghiệp xây dựng CNXH trên quê hương Khánh Hoà, thực hiện mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976): Tích cực mở mang giao thông vận tải, phải kiên quyết sớm khắc phục tình trạng năng lực giao thông vận tải và thông tin liên lạc không cân đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và không cân đối giữa các bộ phận trong nội bộ ngành.
Chiến tranh đi qua đã tàn phá nặng nề mạng lưới đường bộ Khánh Hoà. Trong chiến tranh, toàn bộ miền núi, trung du và hải đảo (chiếm 75% diện tích tự nhiên toàn tỉnh) không có đường ô tô. Ở đồng bằng, các công trình giao thông bị hư hỏng nặng nề, cầu cống sụp đổ, qua sông hầu hết bằng đò, cầu khỉ; đường ô tô bị chia cắt từng đoạn, bị cô lập trong các khu vực địa lý nhỏ hẹp. Đường giao thông ở các đô thị hầu hết nhỏ hẹp, chủ yếu là đường đất, đá, chỉ một số ít là đường nhựa.
Tháng 11/1975, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh Khánh Hoà hợp nhất với tỉnh Phú Yên thành tỉnh Phú Khánh. Ty Giao thông vận tải Phú Khánh quản lý các đơn vị: Công ty cầu đường Nam Phú Khánh, Công ty cầu đường Bắc Phú Khánh, Công ty vận tải ô tô, Công ty Sửa chữa Bắc Phú Khánh, Xí nghiệp khảo sát thiết kế, Nhà máy sửa chữa ô tô 2. Năm 1978, thực hiện cải tạo công thương nghiệp, Ty Giao thông vận tải tiếp nhận các đơn vị: Xí nghiệp công tư hợp doanh ô tô Cam Ranh, Xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải khách, Xí nghiệp công tư hợp doanh ô tô Bắc Phú Khánh, Xí nghiệp công tư hợp doanh Khánh Ninh, Xí nghiệp Tàu thuyền, Ban Quản lý các bến xe, Công ty đại lý vận tải, Công ty vận tải biển, Xí nghiệp vật liệu, Trường lái xe.
Bộ máy tổ chức của Ty Giao thông vận tải Phú Khánh giai đoạn 1975-1989:
- Các Trưởng ty lần lượt là các ông: Dương Minh Tiến, Bùi Quốc Tuệ, Quảng Mậu Nho, Võ Hoà, Hồ Văn Hoà.
- Các Phó Ty: Bùi Quốc Tuệ, Châu Công Vọng, Nguyễn Kim Bài, Nguyễn Khắc Điềm, Hồ Văn Hoà, Nguyễn Phong Trừng, Hoàng Đôn Thoại, Nguyễn Khoa Diệu Hương, Phan Xuân Ngọc.
Những năm 1975-1989, Ty Giao thông vận tải Phú Khánh tập trung sức lực nhanh chóng khôi phục và phát triển mạng lưới giao thông đường bộ góp phần xây dựng, phát triển kinh tế-xã hội tỉnh nhà sau chiến tranh. Đồng thời tổ chức đầu tư xây dựng một số tuyến đường tỉnh, liên huyện được nâng cấp mở rộng: Tỉnh lộ 2 từ 10 km được kéo dài về phía tây đến xã Giang Ly lên 38 km, Tỉnh lộ 8 từ 10 km kéo dài về phía tây đến bến Khế dài 26 km, Tỉnh lộ 9 từ 9 km kéo dài đến xã Thành Sơn thành 55,6 km. Đặc biệt trong giai đoạn này ngành giao thông vận tải đã khảo sát, thiết kế, xây dựng đường đèo Khánh Sơn trên Tỉnh lộ 9 từ vịnh Cam Ranh đến các thung lũng Tô Hạp, Ô Kha dài 15 km qua eo Ba Cụm cao gần 600m. Đây là đèo cao nhất, dài nhất tỉnh Khánh Hoà và là công trình được làm mới sau ngày giải phóng.
Thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, mạng lưới vận tải phục vụ phát triển kinh tế -xã hội tỉnh Khánh Hoà
Năm 1989, tỉnh Phú Khánh tách làm 2 tỉnh: Khánh Hoà và Phú Yên, từ khi tái lập tỉnh Khánh Hòa đến nay Hệ thống giao thông vận tải đã được quan tâm đầu tư phát triển mạnh mẽ. Bộ máy tổ chức của Sở Giao thông vận tải được củng cố, Giám đốc Sở lần lượt là các ông: Nguyễn Phong Trừng, Chu Công Định, Nguyên Kê (phụ trách), Nguyễn Xuân Long, Nguyễn Công Định.
Các Phó Giám đốc Sở là các ông: Hoàng Đôn Thoại, Nguyễn Kê, Nguyễn Công Định, Trần Vinh, Nguyễn Văn Dần và Cao Tấn Lợi.
Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X và XI về đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, Nghị quyết Tỉnh Đảng bộ lần thứ 13, 14 , 15 và 16 trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh, với phương châm “Giao thông vận tải đi trước một bước”.
Cơ sở hạ tầng giao thông được xây dựng phát triển mạnh mẽ, nhiều dự án xây dựng mới, nâng cấp mở rộng mạng lưới đường bộ được thực hiện: Nâng cấp mở rộng, nhựa hoá Tỉnh lộ 1, Tỉnh lộ 2, Tỉnh lộ 8, Tỉnh lộ 8B, Tỉnh lộ 9.
Giai đoạn 1995 – 2005 đã đầu tư xây dựng mới các tuyến đường: Đường QL1-Nhà máy Hyundai (QL 26B), đường vào thác Yang bay, đường vào Dốc Lết, đường Khánh Bình –Ninh Xuân; Đường Nguyễn Tất Thành (đầu tư 321,6 tỷ.đ), đường Phạm Văn Đồng (đầu tư 204 tỷ.đ), đường lên Hòn Bà (đầu tư 83,46 tr.đ); đường ra Đầm Môn (đầu tư 59,73 tỷ.đ), cầu Trần Phú (120 tỷ.đ) Cầu Dứa (40 tỷ.đ).
Giai đoạn 2005 đến nay, thực hiện đầu tư xây dựng mới các tuyến đường: Đường Khánh Lê – Lâm Đồng 450 tỷ, Đại lộ Nguyễn Tất thành đoạn từ ngã tư Lê Hồng Phong đến Khu du lịch Sông Lô 180 tỷ và cầu Bình Tân mới 113 tỷ đồng; đường Cầu Lùng – Khánh Lê: 550 tỷ; xây dựng mới đường Ninh Phước – Ninh Vân huyện Ninh Hòa 59,18 tỉ; nâng cấp, mở rộng Tỉnh lộ 5: 94,41tỉ; dự án QL1C đoạn cải tuyến đèo Rù Rì: 90 tỷ; dự án xây dựng mới cầu Phú Cốc huyện Diên Khánh 70 tỷ đồng.
Từ năm 2006 đến nay, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ 15, 16 của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, về chiến lược phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH – HĐH đã xác định “xây dựng kết cấu hạ tầng phải đi trước một bước”. Sở Giao thông vận tải tham mưu UBND tỉnh xây dựng chiến lược phát triển giao thông vận tải giai đoạn 2006- 2010 và định hướng đến 2020, với việc lập trình UBND tỉnh và HĐND thông qua 03 quy hoạch phát triển ngành Quy hoạch điều chỉnh phát triển GTVT tỉnh Khánh Hoà đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020; Quy hoạch Giao thông đường thuỷ nội địa tỉnh Khánh Hoà đến năm 2020 và Quy hoạch đấu nối các nút giao với quốc lộ trên địa bàn tỉnh Khánh Hoà. Đến nay đường từ Nha Trang đi các huyện đều nâng cấp mặt đường bê tông nhựa, 100% số xã trong tỉnh đã có đường ô tô đến trung tâm xã, các tuyến đường nội thị, nội thành được nâng cấp, mở rộng, nhựa hoá làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt các khu đô thị.
Đặc biệt tại thành phố Nha Trang, 3 cửa ngõ chính vào thành phố: Cửa ngõ phía Bắc với các tuyến 2/4 (chỉ giới 32m) và tuyến ven biển đường Phạm Văn Đồng lối với Quốc lộ 1A xã Vĩnh Lương đến đường Trần Phú, đường vòng Núi Chụt tạo thành tuyến đường ven biển dài 25km, trở thành tuyến đường du lịch vào loại đẹp nhất của Việt Nam. Cửa ngõ phía Tây với các tuyến 23/10 (chỉ giới 30m), Cửa ngõ phía Nam từ QL1 A tại Cam Nghĩa, Cam Lâm qua cầu Cam Hải hướng sân bay Cam Ranh và đại lộ Nguyễn Tất Thành qua Cầu Bình Tân về trung tâm thành Phố Nha Trang, đặc biệt tuyến Nha Trang – Đà Lạt hoàn thành đã rút ngắn được 90km khoảng cách Nha Trang đi Đà Lạt, tạo thuận lợi cho sự hợp tác phát triển kinh tế và du lịch giữa 2 thành phố du lịch Nha Trang và Đà Lạt.
Tính đến 30/6/2014, hệ thống đường bộ tỉnh Khánh Hoà có tổng chiều dài đường bộ toàn tỉnh là: 4.346,8 km, trong đó: Đường Quốc lộ: 224,92 km; Đường tỉnh quản lý: 557,68 km; Đường đô thị, đường huyện: 1024,2 km; Đường xã: 2.540 km. So với năm 2011, tổng chiều dài các tuyến đường tăng 186,06 km (4,44%), trong đó đường tỉnh tăng 41 km (7,58%), đường đô thị, đường huyện tăng 27,1 km (2,72%), đường xã tăng 117,96 km (4,87%). Mật độ đường bộ trên diện tích là: 0,83 km/km2 (4346,8 km/5218 Km2) và trên dân số là: 3,70 km/1.000 dân (1.174.000 người), nếu so sánh chung trong cả nước thì tỉnh Khánh Hoà là một trong các tỉnh có tỷ lệ này cao (cả nước 0,68 Km/Km2 và 2,65 Km/1.000 dân). Về chất lượng đường bộ, đối với hệ thống đường tỉnh; Phần lớn các tuyến đường tỉnh là đường nối liền đồng bằng với miền núi, tuy đã được đầu tư nâng cấp, mở rộng trong thời gian qua, đường có mặt đường hẹp, (chiều rộng 3,5m) dài 240,45 km (41,22%). Về đánh giá xếp loại mặt đường, đường tốt đạt 210 km (35,95%), còn lại trung bình.
Về lĩnh vực Vận tải: Năm 1989 số lượng phương tiện ô tô toàn tỉnh là 332 xe vận tải hành khách và hàng hóa; Đến tháng 6/2014, theo thống kê của Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới Khánh Hòa: Tổng số phương tiện đường bộ toàn tỉnh hiện có ô tô là 25.300 phương tiện, bao gồm: Xe con: 8.500 chiếc, Xe khách: 3.700 chiếc, Xe tải: 12.100 chiếc, Xe ô tô chuyên dùng: 1000 chiếc.
Toàn tỉnh hiện nay có 8 hợp tác xã vận tải, 86 Công ty cổ phần và TNHH, 14 doanh nghiệp tư nhân và 82 hộ kinh doanh cá thể, hoạt động kinh doanh vận tải bằng xe ô tô, với 2217 xe khách, 10.173 xe tải và 13 doanh nghiệp hoạt động xe Taxi; Hoạt động vận tải công cộng được tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện, xe buýt công cộng được đi vào hoạt động từ năm 2003 với 6 tuyến xe buýt nội thị thành phố Nha Trang, Sở GTVT đã tham mưu UBND tỉnh thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động xe buýt và đã có những cơ chế ưu đãi hiệu quả, thu hút các nhà đầu tư tham gia. Năm 2013, đã tổ chức đấu thầu thành công 6 tuyến xe buýt nội thị thành phố Nha Trang và nhà đầu tư đã tiếp nhận bàn giao đi vào hoạt động từ 01/6/2014. Đến nay, toàn tỉnh có 5 tuyến xe buýt nội tỉnh liên huyện hoạt động theo mô hình xã hội hóa, không có trợ giá từ ngân sách nhà nước. Các tuyến xe buýt đã mang lại diện mạo mới, văn minh, khang trang cho đô thị và vùng phụ cận, góp phần giảm ùn tắc giao thông, kiềm chế tai nạn giao thông, ổn định trật tự vận tải và tiết kiệm chi phí xã hội. Hoạt động Taxi cũng phát triển mạnh, năm 2010 có 720 xe, đến nay là trên 1000 xe.
Công tác sát hạch và cấp phép lái xe: (nhận bàn giao từ Phòng Cảnh sát giao thông-Công an Khánh Hoà từ tháng 8/1995).
Công tác sát hạch-cấp GPLX được thực hiện đúng quy trình, quy định nhà nước, riêng đối với sát hạch-cấp GPLX mô tô được tổ chức khắp các địa bàn vùng sâu, vùng xa, miền núi, đáp ứng tốt nhu cầu của nhân dân. Tính đến 30 tháng 9 năm 2014, Sở Giao thông vận tải đã tổ chức sát hạch và cấp 71.833 GPLX ô tô và 473.306 GPLX mô tô.
Về vận tải đường thủy: Năm 1989 các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu phục vụ cầu dân sinh, đến giữa thập niên 90, cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, cũng như những đổi mới về cơ sở hạ tầng của tỉnh Khánh Hoà và ưu tiên phát triển du lịch sinh thái và biển đảo, nhu cầu đi du lịch của nhân dân ngày càng tăng, khách du lịch đến Khánh Hoà ngày càng đông, phương tiện thủy nội địa phát triển mạnh mẽ để phục vụ du lịch. Đến nay đã có 600 tàu khách, 20 tàu hàng, trong đó loại tàu vỏ conposit, vỏ thép dần thay thế tàu vỏ gỗ. Hoạt động vận tải thủy của Khánh Hòa chủ yếu là vận chuyển hàng hóa và hành khách du lịch từ bờ ra đảo.
Về cảng biển: Hệ thống đường biển và thủy nội địa với 370 km bờ biển và hơn 40 sông, nhánh sông có chiều dài từ 10 km trở lên, về cơ sở hạ tầng có 38 bến đò và 5 cảng biển, trong đó 3 cảng quốc tế. Việc nâng cấp Cảng Ba Ngòi thành Cảng tổng hợp do Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam quản lý đang được triển khai thực hiện. Đến nay, đã đầu tư hoàn thành cầu tàu 5 vạn tấn, dài 180 m (giai đoạn 1) với công suất xếp dỡ hàng hóa là 03 triệu tấn/năm, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. UBND tỉnh đang hoàn chỉnh các thủ tục để nhận bàn giao Cảng Nha Trang từ Vinalines sớm chuyển đổi công năng của Cảng Nha Trang thành cảng hành khách và tổ hợp dịch vụ để phát triển dịch vụ du lịch. Đã đầu tư hoàn thành và đưa vào sử dụng có hiệu quả các cảng neo đậu tàu thuyền tránh trú bão như: Cảng cá Đá Bạc, Cảng cá Đại Lãnh, Khu neo đậu tàu thuyền tránh trú bão xã Ninh Hải.
Về cảng hàng không: Đã từng bước nâng cấp, mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh theo hướng hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ. Hiện nay, tỉnh đang lập thủ tục trình Chính phủ cho đầu tư đường cất hạ cánh số 2 đạt tiêu chuẩn cấp 4E (theo phân cấp của ICAO) để có thể đón nhận 2,5 triệu hành khách/năm và 50.000 tấn hàng hoá/năm.
Dưới sự lãnh đạo sâu sát của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh và Bộ GTVT; sự chỉ đạo của HĐND, UBND các cấp từ xã đến huyện, sự hợp tác, phối hợp, hỗ trợ của các sở, ban ngành và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong phong trào “nhà nước và nhân dân cùng làm đường, trường, trạm” cộng với sự nỗ lực phấn đấu của cán bộ công chức viên chức, đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật trong toàn ngành giao thông vận tải tỉnh nhà Hệ thống giao thông vận tải tỉnh Khánh Hòa không ngững phát triển cả về lượng và chấ,t đáp ứng ngày càng cao nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và đi lại của nhân dân.
Quá trình xây dựng và phát triển Ngành GTVT tỉnh Khánh Hòa đã được Nhà nước, Chính phủ, Bộ GTVT và UBND tỉnh ghi nhận bằng những phần thưởng cao quí mà ngành GTVT Khánh Hòa được trao tặng trong những năm qua:
Sở đã được tặng thưởng 3 Huân chương Lao động: hạng Nhất, Nhì và hạng Ba. Năm 2010 được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba;
4 Cờ thi đua Xuất sắc của Chính phủ các năm 1983, 2003, 2006, 2008; trong đó 2 Cờ thi đua xuất sắc về phong trào phát triển giao thông nông thôn - miền núi tỉnh Khánh Hòa;
1 Cờ thi đua xuất sắc của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Khánh Hòa về thành tích 5 năm (2005-2009) Đảng bộ đạt tiêu chuẩn trong sạch, vững mạnh tiêu biểu;
15 Cờ thi đua xuất sắc của Bộ GTVT các năm: từ 1994 - 1999, từ năm 2001 - 2004, năm 2006, 2008 – 2012;
3 Cờ thi đua xuất sắc của UBND tỉnh Khánh Hòa về dẫn đầu Khối thi đua các năm 2004, 2007, 2008 và nhiều bằng khen của UBND tỉnh.
(SỞ GIAO THÔNG VẬN TẢI KHÁNH HÒA)